Số hóa trong truy xuất nguồn gốc: Bệ đỡ cho nông sản tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu

Số hóa trong truy xuất nguồn gốc: Bệ đỡ cho nông sản tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu

(HQ Online) – Hiện nay, nông sản Việt Nam đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, giúp kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2022 đạt trên 53,22 tỷ USD. Tuy nhiên, để nhanh chóng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nông sản Việt cần đảm bảo yêu cầu, quy định đưa ra từ phía nước nhập khẩu, trong đó, có vấn đề thực hiện truy xuất nguồn gốc.

Không chỉ là cái tem

Tại diễn đàn “Thúc đẩy số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản – thực phẩm” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng các đơn vị tổ chức ngày 28/2, ông Nguyễn Quốc Toản, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhấn mạnh, truy xuất nguồn gốc là một trong 8 vấn đề trọng tâm trong chuyển đổi số nông nghiệp.

“Quản lý nhà nước trong vấn đề truy xuất nông sản là phục vụ, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, nâng cao tính minh bạch, giải trình cho ngành hàng, quyền lợi của nông dân… Với những giá trị đó, hệ thống truy xuất nguồn gốc không chỉ là cái tem, mà đó là trách nhiệm của nhà sản xuất, niềm tin của người tiêu dùng và rộng ra là tính giải trình của nền nông nghiệp”, ông Nguyễn Quốc Toản khẳng định.

Cũng theo ông Nguyễn Quốc Toản, hiện Việt Nam có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, 14.200 doanh nghiệp nông nghiệp, 7.500 cơ sở chế biến nông nghiệp, 9.400 siêu thị và chợ hạng 1… Đây là các dữ liệu cấu thành big data của ngành nông nghiệp. Do đó, truy xuất nguồn gốc phải tổng thể và rất cụ thể. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn có quá nhiều cấu phần, chỉ tính riêng khâu sản xuất đã rất nhiều. Ngành nông nghiệp xác định sẽ xây dựng kiến trúc, công nghệ có lộ trình. Việc áp dụng sẽ ưu tiên các sản phẩm xuất khẩu chính ngạch, cùng với đó là quan tâm thị trường nội địa.

Đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp, ông Nguyễn Hoài Nam cho biết, Hệ thống Truy xuất nguồn gốc (TXNG) của Bộ NN& PTNT đang được cài đặt và vận hành chính thức tại Bộ tại địa chỉ truy cập: http://checkvn.mard.gov.vn/ Hệ thống đã xây dựng được 3 phân hệ chính gồm: Cổng thông tin TXNG; Hệ thống quản lý, cập nhật thông tin, dữ liệu về TXNG dành cho đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp; Cho phép khai thác sử dụng bằng ứng dụng trên thiết bị di động trong việc tìm kiếm, truy vết, tra cứu thông tin nguồn gốc sản phẩm.

Đến thời điểm hiện tại, hệ thống đang kết nối, chia sẻ dữ liệu với 8 hệ thống TXNG của 8 tỉnh, thành phố và có hơn 3.964 doanh nghiệp với bộ mã truy xuất nguồn gốc của 16.987 sản phẩm nông sản thực phẩm.

So sánh với hệ thống Dịch vụ công Quốc gia, ông Nam cho rằng, để hệ thống TXNG tại Bộ NN-PTNT hoạt động thực sự hiệu quả, rất cần sự kết nối, dẫn dắt của Cổng TXNG Quốc gia. Do đó, đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp kiến nghị, TXNG nông sản nói riêng và các sản phẩm khác nói chung cần được xây dựng, phát triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung.

Chất lượng là yếu tố quyết định cho nông sản xuất khẩu bền vững vào các thị trường. Ảnh: N.H
Nguyên tắc để quản lý truy xuất nguồn gốc là chúng ta kiểm soát toàn bộ thông tin từ trang trại, vườn trồng đến sơ chế, đóng gói, chế biến, lưu kho, vận chuyển, phân phối và tiêu dùng. Ảnh: N.H

Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói

Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nguyên tắc để quản lý truy xuất nguồn gốc là chúng ta kiểm soát toàn bộ thông tin từ trang trại, vườn trồng đến sơ chế, đóng gói, chế biến, lưu kho, vận chuyển, phân phối và tiêu dùng. Để đảm bảo điều đó, Cục Bảo vệ thực vật đã đưa ra toàn bộ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thuộc vi phạm quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (thực phẩm thực vật). Theo đó, vườn trồng hoặc cơ sở đóng gói có nhu cầu đăng ký mã số thì trước tiên phải bảo đảm tuân thủ các yêu cầu của nước nhập khẩu. Việc đăng ký mã số trên cơ sở tự nguyện.

Ông Huỳnh Tấn Đạt cũng nhấn mạnh, việc kiểm tra đánh giá là căn cứ để cấp mã số hoặc duy trì, phục hồi mã số. Mã số phải được công nhận bởi nước nhập khẩu. Mã số được cấp phải luôn bảo đảm tuân thủ các điều kiện của nước nhập khẩu và phải được giám sát bởi cơ quan quản lý để duy trì mã số. Hiện nay, Cục Bảo vệ thực vật đang xây dựng phần mềm quản lý cơ sở đóng gói tại địa chỉ: https://cms.packinghouse.online và các chủ cơ sở đóng gói có thể liên hệ với Cục Bảo vệ thực vật để có tài khoản dùng thử.

Bên cạnh đó, Cục đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu. Hệ thống sử dụng cho các cơ quan quản lý (Cục Bảo vệ thực vật và cơ quan đầu mối tại các địa phương) và kết nối dữ liệu với “Nhật ký đồng ruộng” và trong tương lai là phần mềm về “quản lý cơ sở đóng gói”.

“Trong quá trình triển khai các hệ thống cơ sở dữ liệu này, chúng tôi còn kết hợp với rất nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực để kiểm soát tốt các vấn đề liên quan từ giai đoạn sinh trưởng, phát triển, từ năng suất, sản lượng của cây trồng cho đến diễn biến tình hình gây hại hay rủi ro trong quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến và lưu kho…”, ông Đạt cho biết thêm.

Đại diện cho doanh nghiệp kiểm định 50.000 tấn mật ong sang Hoa Kỳ mỗi năm, ông Henry Bùi, Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Khoa học công nghệ Hoàn Vũ cho biết, Hoàn Vũ là đơn vị có hơn 3.000 lô thanh long đi các thị trường, trong đó đã tiến hành kiểm định 2.700 lô thanh long/năm vào thị trường EU. Hoàn Vũ cũng là đơn vị duy nhất tiến hành kiểm định 50.000 tấn mật ong xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ mỗi năm và 100% không bị trả lại do đáp ứng được những quy định nghiêm nặt về kháng sinh và hóa chất của nước nhập khẩu.

Theo đó, doanh nghiệp hoàn toàn đủ khả năng bảo đảm chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách xác thực nguồn gốc nông sản – thực phẩm. Cụ thể, Hoàn Vũ Lab có thể kiểm nghiệm, xác thực nguồn gốc rất nhiều dịch trái cây xuất đi thị trường châu Âu, kết quả kiểm nghiệm tương đương với phòng thí nghiệm bên Đức; xác thực rau củ quả hữu cơ bằng thiết bị EA-IRMS; xác thực, truy tìm nguồn gốc địa lý cà phê bằng phương pháp tỉ lệ đồng vị; xác thực nguồn gốc địa lý gạo hữu cơ; phân biệt tôm sú nuôi và tôm sú thiên nhiên bằng đồng vị bền; xác thực kiểm nghiệm, xác thực nguồn gốc phân bón hữu cơ bằng phương pháp phân tích đồng vị bền Nitơ; xác thực rượu, bia thật giả; kỹ thuật phân tích đồng vị bền mở lối cho kỷ nguyên xác thực nguồn gốc nông sản và tất cả các chủng loại thực phẩm.

Theo ông Henry Bùi, đối với những thị trường “khó tính” như EU, Hoa Kỳ, Australia…, truy xuất nguồn gốc là một mắt xích quan trọng của hệ thống tiêu chuẩn về hàng hóa nhập khẩu, đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi, hàng hóa nông sản với truy xuất nguồn gốc.

    Đăng ký nhận tư vấn miễn phí